Trao đổi với PV Thanh Niên về
tình trạng này, luật sư (LS) Nguyễn Đức Chánh (thuộc Đoàn LS TP.HCM)
cho biết, theo khoản 22, Điều 4, Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 thì:
“Tài khoản thanh toán là tài khoản tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng
mở tại ngân hàng để sử dụng các dịch vụ thanh toán do ngân hàng cung
ứng”. Còn theo khoản 2 Điều 12 Quy chế mở và sử dụng tài khoản tiền gửi
theo Quyết định số 1284/2002/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước VN thì trách
nhiệm của ngân hàng là “kiểm soát các lệnh thanh toán của khách hàng,
đảm bảo lập đúng thủ tục quy định, hợp pháp, hợp lệ và khớp đúng với các
yếu tố đã đăng ký….”.
“Nếu
đúng là có sự việc ký séc, chi séc diễn ra liên tục, trong khi bà X.,
Giám đốc Công ty H. chưa hề mua séc lần nào và chữ ký trên séc cũng
không phải do bà ký ra thì trách nhiệm thuộc về ngân hàng”, LS Chánh nêu
quan điểm.
Cũng
theo LS này, việc bà X. đăng ký dịch vụ thông báo giao dịch Mobile
banking vào số điện thoại cá nhân của bà và ngân hàng cũng thu phí dịch
vụ này nhưng không hề thông báo khi có giao dịch, thì lỗi thuộc về ngân
hàng. LS này dẫn khoản 4 Điều 12 của Quy chế mở và sử dụng tài khoản
tiền gửi. Theo đó, trách nhiệm của ngân hàng là thông tin kịp thời về
những giao dịch thanh toán và số dư tài khoản cho khách hàng theo định
kỳ hoặc đột xuất khi có yêu cầu. Vì vậy, theo quy định tại khoản 8 Điều
12 Quy chế mở và sử dụng tài khoản tiền gửi thì ngân hàng chịu trách
nhiệm về những thiệt hại, vi phạm, lợi dụng trên tài khoản của khách
hàng do lỗi của mình. Trong trường hợp này, Công ty H., với tư cách chủ
tài khoản, có quyền khởi kiện ra tòa để yêu cầu Tòa án buộc ngân hàng
bồi thường thiệt hại cho mình. Còn vụ việc hình sự của những người khác
sẽ do Cơ quan điều tra tiến hành giải quyết theo luật định.
LS
Nguyễn Văn Quynh (thuộc Đoàn LS Hà Nội) cũng khẳng định, trong vụ việc
này trách nhiệm là của ngân hàng, và có dấu hiệu hình sự nên cơ quan
công an cần phải xác minh điều tra làm rõ dòng tiền này được rút như thế
nào.
“Ngoài
ra, ngân hàng thoái thác trách nhiệm đổ lỗi cho người lao động nghỉ
việc, không làm rõ trách nhiệm của mình thì ngân hàng đã tự làm mất niềm
tin của khách hàng đối với ngân hàng. Tại sao gần một năm vẫn không
cùng nhau giải quyết cũng như đề nghị các cơ quan chức năng giải quyết,
xác minh sự việc để làm rõ, đảm bảo cho người gửi tiền? Trách nhiệm này
vẫn thuộc về Ngân hàng V. khi quyền lợi người gửi tiền đã không được bảo
đảm”, LS Quynh phân tích.
Còn
LS Nguyễn Việt Khoa (Giảng viên Khoa Luật ĐH Luật TP.HCM), trong trường
hợp này, Ngân hàng V. phải chịu trách nhiệm đối với khoản tiền mà Công
ty H. đã mở tài khoản tại ngân hàng; ngân hàng không thể thoái thác
trách nhiệm. Đây là quan hệ giữa ngân hàng và công ty. Việc một nhân
viên của Ngân hàng V. thực hiện công việc cho ngân hàng (ngay cả, nếu có
lỗi của nhân viên này mà thất thoát số tiền của Công ty H.) thì bên
chịu trách nhiệm cũng phải là ngân hàng. LS Khoa dẫn quy định tại điều
618 Bộ luật Dân sự năm 2005: “Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do
người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao;
nếu pháp nhân đã bồi thường thiệt hại thì có quyền yêu cầu người có lỗi
trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của
pháp luật”. Cụ thể, ngân hàng phải bồi thường trước cho khách hàng, sau
đó ngân hàng có thể yêu cầu nhân viên bồi thường lại hoặc yêu cầu cơ
quan điều tra xem xét các cá nhân cấu kết gây thiệt hại cho ngân hàng
(nếu có).
Theo LS Khoa, đây có thể xem là lỗ hổng ở khâu kiểm soát nhân viên trong hoạt động của ngân hàng.
Ngọc Lê - Báo Thanh niên online